Thống kê truy cập
  • Đang truy cập:
  • Hôm nay:
  • Tháng hiện tại:
  • Tổng truy cập:

Hội thảo KHCN - Thúc đẩy KHCN phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng trung du miền núi phía Bắc

Chủ nhật, 07/12/2025, 16:20 GMT+7

Hội thảo KHCN - Thúc đẩy KHCN phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng trung du miền núi phía Bắc

Hội thảo KHCN - Thúc đẩy KHCN phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng trung du miền núi phía Bắc

Ngày 5 tháng 12 năm 2025, tại Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UBND tỉnh Phú Thọ đồng tổ chức Hội thảo với chủ đề “Thúc đẩy Khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng Trung du và miền núi phía Bắc trong kỉ nguyên mới”.

Tham dự và chủ trì hội thảo có đồng chí Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đồng chí Đinh Công Sứ - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ. Cùng tham dự hội thảo có đại diện Vụ Khoa học và Công nghệ, Hội làm vườn Việt Nam, Hội Khoa học Công nghệ Chè Việt Nam, Đại học Nông lâm Bắc Giang, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, đại diện các Sở Nông nghiệp và Môi trường của 09 tỉnh vùng Trung du miền núi phía Bắc, các Viện nghiên cứu, doanh nghiệp và HTX,…

anh_1_dec_2025
Theo báo cáo của Vụ Khoa học và Công nghệ, hiện nay, sau khi sát nhập, vùng Trung du miền núi phía Bắc có 9 tỉnh, có diện tích tự nhiên chiếm 27,5% cả nước (9,12 triệu ha), diện tích đất nông nghiệp chiếm 18,3 % cả nước (2,135 triệu ha), dân số chiếm 11,2% cả nước (11,24 triệu người), diện tích cây ăn quả 21,4% cả nước (xấp xỉ 272 nghìn ha), cây công nghiệp gần 7% cả nước (151 nghìn ha), cây lấy dầu 10,2% (303 nghìn ha), cây gia vị, dược liệu chiếm 8,9% (6 nghìn ha). Với sự đa dạng về đất đai, địa lý mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất hữu cơ, sản xuất tuần hoàn với các sản phẩm mang sắc thái bản địa gắn với du lịch. Một số cây trồng chủ lực như: cây chè khoảng 100.000 ha, năng suất 87 tạ/ha; cây chuối khoảng 24 nghìn ha, năng suất trung bình ước 195 tạ/ha; cây nhãn 25,3 nghìn ha, năng suất trung bình ước 70 tạ/ha; cây bưởi 24 nghìn ha, năng suất trung bình ước 147,7 tạ/ha; cây xoài 25 nghìn ha, năng suất trung bình ước 60 tạ/ha; cây cam 18 nghìn ha, năng suất trung bình ước 60 tạ/ha...) và một số cây trồng khác như vải, na, dứa với diện tích khoảng 5.000 – 7.000 ha.

anh_2_-_dec_2025
Kết quả KHCN đã được chuyển giao, ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp thông qua doanh nghiệp và người nông dân, góp phần quan trọng để giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao (trên 30 %) trong sản xuất nông nghiệp; nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao đã góp phần thay đổi tập quán, thói quen canh tác, nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của vùng Trung du miền núi phía Bắc, có thể kể đến như:
- Xây dựng mô hình sản xuất lúa bản địa phục vụ phát triển sản phẩm OCOP tại các tỉnh miền núi phía Bắc với quy mô 300 ha với các giống địa phương Séng Cù, Tan Pỏm, Già Dui, nếp Tan Tú Lệ, Khẩu Nua Lếch, Khẩu Nua Pái, nếp cái hoa vàng… tại Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang.... năng suất của lúa tăng từ 30-35% so với sản xuất đại trà góp phần nâng cao thu nhập cho người sản xuất từ 20-25%. 
- Một số mô hình áp dụng quy trình, kỹ thuật tiên tiến như: kỹ thuật canh tác lúa thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu; áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa như: sử dụng mạ khay, cấy máy, sạ hàng, sạ cụm, sử dụng máy bay không người lái, máy gặt đập liên hợp…. đã giảm 20-30% lượng đạm bón; giảm 30-50% chi phí BVTV; giảm 27- 30% lượng nước tưới/vụ; hiệu quả kinh tế tăng 20-30% so với qui trình canh tác đang áp dụng trên diện rộng.
- Xây dựng mô hình sản xuất đậu tương DT218, DT2010 năng suất cao theo chuỗi giá trị tại một số tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Hòa Bình với quy mô 150 ha, năng suất trồng xen ≥ 1,2 tấn/ha/vụ, trồng thuần đạt ≥2,2 tấn/ha/vụ. 
- Triển khai xây dựng các mô hình sản xuất rau trong nhà màng, nhà lưới công nghệ cao (trồng rau trong giá thể, áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt…) tại Sơn La, Phú Thọ... nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị trường, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân từ 50 - 60% so với sản xuất đại trà, tạo việc làm cho hàng nghìn lao động trong việc trồng, liên kết tiêu thụ sản phẩm rau.
- Mô hình nhãn Ánh vàng 205 tại Sơn La với quy mô 100 ha sau 3 năm ghép cải tạo đã cho năng suất 7-8 tấn/ha, cho năng suất và chất lượng vượt trội, hiệu quả kinh tế tăng đến 40% so với các giống bản địa, mang lại lợi nhuận 200 -300 triệu đồng. 
 - Mô hình trồng cây Sơn ta tại Phú Thọ và Tuyên Quang với tổng diện tích 30 ha, cho hiệu quả kinh tế tăng 30- 40% so với các giống sơn truyền thống đang trồng tại địa phương. 
- Mô hình ghép cải tạo cà phê chè tại Sơn La với quy mô 50 bằng các giống cà phê chè mới (THA1), đã cho năng suất tăng 15-20%, cho hiệu quả kinh tế tăng 20 - 23% so với đối chứng là vườn cà phê cũ của nông dân.
- Mô hình trồng mới thay thế các giống chè cũ bằng các giống chè mới cho năng suất cao như giống chè mới như PH10, PH8, San Tuyết, Bát Tiên, Kim Tuyên… đồng thời áp dụng đồng bộ các TBKT đã góp phần nâng cao năng suất suất và sản lượng chè của vùng Trung du miền núi phía Bắc. 
- Mô hình áp dụng quy trình sản xuất chè an toàn theo VietGAP đã giúp thu nhập của người sản xuất chè tăng từ 25-30% so với sản xuất đại trà và tạo công ăn việc làm trên 1.200 hộ nông dân. Mô hình áp dụng tiến bộ mới về sản xuất chè như: đốn tỉa, đốn cải tạo, hái tạo tán, bón phân vi sinh… đã giúp cây chè sinh trưởng phát triển tốt, năng suất chè tăng, đặc biệt việc sử dụng phân hữu cơ vi sinh trong sản xuất chè hữu cơ, thâm canh chè đã giúp cải tạo đất và bảo vệ môi trường. 
- Triển khai xây dựng mô hình giống chanh leo, dứa, xoài theo tiêu chuẩn VietGAP với quy mô 150 ha tại Sơn La, Phú Thọ, Điện Biên… đã nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững vùng nguyên liệu sản xuất cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP phục vụ cho doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
- Triển khai mô hình nhân giống, trồng mới và thâm canh, áp dụng kỹ thuật ghép cải tạo, đốn tỉa cành, tạo tán, sản xuất cây ăn quả (nhãn, cam, na) tại Sơn La nhằm góp phần rải vụ cây ăn quả, nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Xây dựng các mô hình sản xuất áp dụng quy trình phòng trừ dịch hại tổng hợp trên cây cam, nhãn, vải... khoảng trên 800 ha, hỗ trợ cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc... tại các vùng chuyên canh cây ăn quả tại các tỉnh Sơn La, Hoà Bình…); đã góp phần thúc đẩy năng suất tăng từ 12-20%, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế tăng trên 20% so với ngoài mô hình, kết nối được thị trường phục vụ cho chế biến trong nước và xuất khẩu.

anh_3_dec_2025
Bên cạnh những kết quả KHCN đã giúp thu hút nhiều doanh nghiệp, tập đoàn trong nước quan tâm và đã đầu tư với quy mô lớn, theo chuỗi giá trị ngành hàng, Những đơn vị này đã áp dụng nhiều quy trình sản xuất hiện đại, công nghệ mới, công nghệ nhập khẩu và đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng nhận định, vùng trung du và miền núi phía Bắc là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước, là vùng phên dậu của tổ quốc. Với sự đa dạng về đất đai, địa lý mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất hữu cơ, sản xuất tuần hoàn với các sản phẩm mang sắc thái bản địa gắn với du lịch, thời gian qua sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng của vùng miền núi phía Bắc đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao đáng kể đời sống của người dân và bảo tồn, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Mặc dù vậy, kết quả sản xuất nông nghiệp của vùng còn nhỏ lẻ manh mún, hiệu quả thấp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có về con người và điều kiện tự nhiên mang tính đặc thù của vùng. Trước ngưỡng cửa của "kỷ nguyên mới", kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa sâu rộng, và sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là cơ hội vàng cho ngành nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng để vùng miền núi phía Bắc cất cánh, nâng cao năng suất, chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp.

anh_4-_dec_2025
Thay mặt cho tỉnh Phú Thọ, đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đinh Công Sứ cho biết, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của địa phương đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Công tác triển khai các chương trình, đề án trong lĩnh vực trồng trọt tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Với sự da dạng về đất đai, địa lý đã mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, đặc biết địa phương đã có các chương trình, mô hình và bổ trí nguồn ngân sách hỗ trợ. Nhiều sản phẩm đặc thù địa phương đã được chứng nhận OCOP như bưởi đỏ Tân Lạc, bưởi Đoan Hùng, chè xanh Phú Thọ, cam Cao Phong… Đồng chí Đinh Công Sứ thẳng thắn nhìn nhận, ngành nông nghiệp Phú Thọ nói riêng và vùng miền núi phía Bắc nói chung vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc, như: Vấn đề cơ chế, chính sách còn một số bất cập; năng lực khoa học công nghệ, nguồn nhân lực vùng này còn yếu; điều kiện địa lý, địa hình, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế; tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường; yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải; sức ép cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt.. “Hội thảo hôm nay do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực giúp các địa phương trong vùng tiếp tục nâng cao hơn nữa về nhận thức và trách nhiệm trong việc thúc đẩy khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong kỉ nguyên mới”, ông Sứ nhấn mạnh.

Anh_6_-_Dec_2025
Các đại biểu đại diện cho Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, Viện Thổ nhưỡng Nông hoá, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, ICRAF Việt Nam, các Sở Nông nghiệp và Môi trường Phú Thọ, Thái Nguyên và nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đã tham gia thao luận, báo cáo những kết quả đạt được của từng đơn vị, cũng như đề xuất nhiều hướng nghiên cứu, chuyển giao mới cho vùng Trung du miền núi phía Bắc. Các đại biểu cùng chung nhận định vai trò quan trọng của khoa học công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đối với phát triển sản xuất của vùng, đặc biệt là sự liên kết, tham gia của doanh nghiệp, đơn vị đào tạo và những cơ quan quản lý tại địa phương để có thể đẩy nhanh công tác chuyển giao, tiếp nhận các tiến bộ kỹ thuật mới cho sản xuất.
Tại hội thảo, PGS.TS. Lê Quốc Doanh - Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT đã có những chia sẻ sâu sắc về kinh nghiệm thực tế theo dõi, gắn bó với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn trong suốt thời gian qua. Trong kỷ nguyên mới, vùng Trung du miền núi phía Bắc còn rất nhiều dư địa để phát triển, phát huy giá trị sản xuất và khẳng định vai trò trên bản đồ ngành nông nghiệp chung của cả nước. PGS.TS. Lê Quốc Doanh nhận định, phát triển nông nghiệp của vùng cần chuyển hướng mạnh mẽ vào chiều sâu, lựa chọn giá trị cốt lõi các sản phẩm trong các mục tiêu hướng đến, các đơn vị nghiên cứu như viện, trường cần thực sự chuyển mình, tăng cường sự tham vấn chuyên môn từ các nhà quản lý, chuyên gia, đẩy mạnh liên doanh liên kết với doanh nghiệp tạo sự đột phá, rút ngắn thời gian chuyển giao sản phẩm nghiên cứu, biết lắng nghe những yêu cầu từ thực tiễn sản xuất.

anh_5_-_Dec_2025
Kết luận hội thảo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng khẳng định, không có khoa học công nghệ thì không có ngành nông nghiệp phát triển như ngày hôm nay. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là chìa khóa để phát triển nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Đối với vùng miền núi phía Bắc, khoa học công nghệ cần tập trung vào những lĩnh vực, địa phương có thế mạnh như cây ăn quả, cây lâm nghiệp, chăn nuôi… Muốn cùng nhau phát triển, các địa phương trong vùng phải liên kết, phải có cơ chế phối hợp giữa các viện, trường, đồng thời phải nhận diện được những hạn chế, tồn tại, bất cập, những điểm nghẽn trong hoạt động khoa học công nghệ nông nghiệp. Phải tăng cường liên kết “6 nhà”, phát huy vai trò đầu tàu của doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất trồng trọt nói riêng. Cần định hướng cơ cấu sản xuất trồng trọt, sản phẩm phù hợp với thị trường và lợi thế từng địa phương, từng vùng; phát triển hệ sinh thái nông nghiệp theo chuỗi đa giá trị. Đặc biệt, các nhà khoa học là nhân tố rất quan trọng để tạo ra những giống cây, con có chất lượng, có giá trị để giúp người dân phát triển kinh tế, mang lại ấm no cho người dân…

 

 


Người viết : Vũ Ngọc Tú